
Động
Tam Thanh và chùa Tam Thanh là di tích lịch sử văn hoá, danh thắng nổi tiếng của
xứ Lạng với câu ca dao:
“Đồng Đăng có phố Kỳ
LừaCó nàng Tô Thị, có chùa Tam
ThanhAi lên xứ Lạng cùng
anh,Bõ công bác mẹ sinh thành
ra em…”
Trong
động Tam Thanh có chùa, gọi là chùa Tam Thanh, còn có tên gọi khác là chùa Thanh
Thiền. Trong cuốn “Đại Nam Nhất Thống Chí” của Quốc Sử quán triều Nguyễn có viết
rằng: “Chùa này nằm trong động núi đá thuộc địa phận xã Vĩnh Trại, châu Thoát
Lãng, cửa mây nhũ đá trong sạch, không bụi trần. Người địa phương cùng người
Minh Hương tô tượng phật phụng thờ, lại có tên nữa là Chùa Thanh
Thiền”.
Về
niên đại: Qua các tài liệu thư tịch cổ, các nhà nghiên cứu cho rằng chùa Tam
Thanh có từ thời Lê. Tấm bia có niên đại cổ nhất ở chùa hiện nay là bia “Trùng
tu Thanh Thiền động”, được chế tác vào năm Vĩnh Trị thứ 2 (1677), nội dung tấm
bia ghi chép về việc trùng tu di tích, quá có có thể nói rằng chùa này đã có từ
trước đó.

Về
tên gọi: Theo các nhà nghiên cứu cho rằng: Nơi này, xưa kia nguyên là nơi thờ
tự của Đạo Giáo, do vậy Tam Thanh tức là Ngọc Thanh, Thượng Thanh và Thái Thanh.
Đây là ba cung Thanh cao nhất được coi là ba tiên cảnh mà ở đó mỗi cung do một
vị thần cai quản, đó là Nguyên Thủy Thiên Tôn (Ngọc Thanh Đại Đế), Linh Bảo
Thiên Quân (Thượng Thanh Đại Đế), và Đạo Đức Thiên Tôn (Thái thượng Lão Quân).
Sau này do ảnh hưởng của nhiều yếu tố, Đạo Giáo mờ nhạt trong tâm thức dân chúng
địa phương, người ta đưa các yếu tố thờ tự của Phật giáo vào thờ ở trong chùa là
chính. Hiện nay trong chùa có các cung thờ như: Cung Tam Bảo (thờ Phật), Cung
Đức Ông, Cung Công đồng Thánh Mẫu, Cung Ngũ Dinh, Cung Cấm (nơi thờ ADi Đà),
Cung Sơn Trang. Trong động Tam Thanh hiện nay, các dấu tích của Đạo Giáo chỉ còn
lại cái tên Tam Thanh và ngày lễ hội chính của Chùa là ngày 15 tháng Giêng cũng
là một biểu hiện Đạo Giáo khi xưa (một ngày lễ hội lớn trong Đạo
Giáo).

Chùa
Tam Thanh nổi tiếng bởi những giá trị văn hoá nghệ thuật của di tích. Hiện nay
trong chùa còn có một hệ thống bia Ma Nhai khá phong phú có giá trị về mặt sử
liệu và văn hoá nghệ thuật do các văn thân, thi sĩ qua các thời kỳ lịch sử lưu
lại. Tấm bia có niên đại cổ nhất ở di tích là tấm bia được Binh Sứ Bắc Quân Đô
Phủ, Đô Đốc Thiên Sự Vũ Quận Công Vi Đức Thắng tạc khắc vào thời Lê – Vĩnh Trị
thứ 2 (1677) bia có tên là: “Trùng tu Thanh Thiền Động” nội dung bia ghi lại
việc hưng công trùng tu di tích này của ông. Tấm bia cổ tiếp theo là của tác giả
Ngô Thì Sĩ tạc vào năm Kỷ Hợi (1779) là một bài thơ ca ngợi cảnh đẹp sơn thủy
hữu tình của di tích. Ngoài ra là hai bài thơ của hai vị quan triều Nguyễn (Đoàn
Đình Duyệt và Tôn Thất Tố) cho tạc khắc khi theo giá vua khải Định năm 1918 ra
tuần thú miền Bắc, nội dung ca ngợi vẻ đẹp danh thắng này. Tại di tích hiện còn
có tấm bia chữ Nôm do tuần phủ Thái Bình là Đào Trọng Vận viết năm 1924, bia có
nội dung ca ngợi cảnh đep của di tích và được phiên âm với nội
dung:
“Xanh xanh xanh ngắt trấn
thành TâyCảnh động này xây lắm vẻ
sayNon nước đi về quen bóng
hạcGió mây đưa đón thoảng làn
mâyGiá trong bể hoạn gương còn
tỏLửa ngất non tình đá cũng
ngâyTrải mấy tang thương lầm
bụi tụcRượu bầu thơ túi vẫn là
đây”
Chùa
Tam Thanh là một ngôi chùa đặc biệt, được bố trí trong hang đá, không có kiểu
kiến trúc giống như những ngôi chùa khác. Qua cách sắp xếp bài trí tượng có thể
thấy hệ thống thờ tự được sắp xếp theo kiểu “tiền Phật hậu Thánh”. Đặc biệt
trong chùa còn lưu giữ bức phù điêu Adiđà có niên đại vào thế kỷ XVII được tạc
theo thế đứng vào vách đá trong hình một lá bồ đề là một nét độc đáo của di
tích.
Đi
sâu vào trong Động, ở khu trung tâm có hồ Âm Ty, nước không bao giờ vơi cạn, hồ
tuy nhỏ nhưng nước chảy suốt ngày đêm, trên các trần hang có nhiều nhũ đá thiên
tạo từ ngàn xưa với những hình tượng sinh động kỳ bí: cây Ngô Đồng, Tiên Ông, Sư
Tử, Voi… Đi vào bên trong ta bắt gặp một sân khấu nhỏ, xung quanh có những nhũ
đá nhiều hình thù khác nhau do thiên nhiên tạo nên, có hai cửa thông thiên, ánh
sáng từ hai cửa này soi rọi vào động làm cho những nhũ đá đẹp lạ thường. Cạnh
khu vực sân khấu có lối dẫn lên cổng trời, tại đây ta có thể đứng ngắm nhìn
quang cảnh của một vùng nông thôn quanh khu vực di tích. Phía ngoài cửa động Tam
Thanh hiện nay còn có nhà sàn và mô hình cọn nước, cối giã gạo đặc trưng của
người dân tộc Tày Lạng Sơn.






0 nhận xét:
Đăng nhận xét